Ngoại khoa

Chuyên khoa: Ngoại khoa

 Ngày đăng: 02/06/2021 Lê Minh Phương

Cách nhận biết cơn đau tim tấn công trước 1 tháng

Các cách nhận biết cơn đau tim tấn công trước 1 tháng là gì ?
 Ngày trả lời: 02/06/2021

Những triệu chứng đau timdưới đây sẽ xảy đến sớm trước một tháng mà nhiều người không hay biết.

  • Không nhiều người nhận ra triệu chứng đau tim sớm trước một tháng khi nó xảy ra. Đau tim xảy ra khi có nhiều mảng bám tích tụ trong động mạch, thiếu lưu lượng máu và gây áp lực, điều này có thể gây chết người.
  • Đổ mồ hôi lạnh và chóng mặt. Lưu thông không đúng cách cũng ảnh hưởng đến não bởi vì lưu lượng máu của não bị hạn chế. Điều này rất nguy hiểm, nó gây ra những cơn chóng mặt và cảm giác lạnh.
  • Cúm hay cảm lạnh. Trước khi cơn đau tim tấn công khoảng 1 tháng, bạn sẽ có triệu chứng cúm đột ngột trước đó 1 tháng hoặc cảm lạnh trước khi cơn đau tim tấn công vài ngày.
  • Áp lực ở ngực. Nếu có dấu hiệu khởi phát của một cơn đau tim, bạn sẽ cảm thấy rất khó chịu ở ngực. Có thể là nhói những cơn nhỏ hoặc ngực bị đè nặng. Cảm giác này sẽ tiếp tục tăng theo thời gian trong vòng 1 tháng.
  • Mệt mỏi. Khi động mạch phình ra, các mạch máu bị chèn ép và tim sẽ nhận được ít máu hơn. Kết quả là chức năng hoạt động của tim sẽ yếu hơn bình thường, điều đó gây mệt mỏi.
  • Khó thở. Bình thường, khi tim không nhận được đủ máu thì phổi sẽ không đủ oxy để hoạt động thông suốt. Hai cơ quan này hoạt động phụ thuộc lẫn nhau. Nếu như bạn thấy có vấn đề về hơi thở, hãy đi gặp bác sỹ.
  • Yếu. Nếu cơ thể bạn đột nhiên yếu ớt không lý do thì đích việc lưu thông máu đang có vấn đề. Cơ bắp không nhận đủ lượng máu sẽ dẫn đến việc thiếu năng lượng ngay cả với những hoạt động không cần nhiều năng lượng.
 Ngày đăng: 02/06/2021 Phạm Hoàng Lân

Những nghề nghiệp có thể dẫn đến bệnh tim mạch

Những nghề nghiệp có thể dẫn đến bệnh tim mạch là gì ?
 Ngày trả lời: 02/06/2021

Một số ngành nghề sau đây có thể dẫn đến nguy cơ bệnh tim mạch hay béo phì bạn không hay.
Một số người bị bệnh tim mạch hay béo phì đổ lỗi nguyên nhân do chế độ ăn ngọt hay chiên xào. Thế nhưng tại Hội nghị Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ hôm thứ 3 cho thấy, một số nghành nghề có xu hướng thiếu lành mạnh hơn những người khác gây ra bệnh này.

Cảnh sát, cứu hỏa được xếp vào nhóm có nguy cơ tim mạch cao. 90% cảnh sát và cứu hỏa bị thừa cân hoặc béo phì. 77% trong số họ có nồng độ cholesterol xấu và 35% huyết áp cao.

Lý do là vì đặc thù của nghề này là công việc đột ngột phải hoạt động căng thẳng cao độ, làm việc theo ca kíp, cường độ liên tục, ăn uống không điều độ, lính cứu hỏa còn phải tiếp xúc với chất carbon monoxide cùng nhiều chất gây ô nhiễm khác nên rất có hại cho tim.

Ngành nghề liên quan đến giao thông vận tải. Nghành nghề này yêu cầu tiếp xúc với nhiên liệu và khói cao hơn những nghề khác. Nghiên cứu năm 1988 cho thấy hơn công nhân giao thông vận tải sẽ chết vì bệnh tim cao hơn 35% so với công nhân ngành nghề khác.

Nhân viên bán hàng. Nhân viên ngành hàng sẽ có thói quen ăn uống nghèo nàn, không được đầy đủ và không điều độ dẫn tới ảnh hưởng đến sức khỏe. Theo kết quả nghiên cứu, 2 trong 3 nhân viên bán hàng có thói quen ăn uống thiếu lành mạnh và có mức độ cholesterol xấu. 4 trong 5 nhân viên lười tập thể dục.

Nhân viên phục vụ ăn uống có thói quen ăn uống tồi tệ nhất trong các ngành nghề, với 4 trong 5 người có một chế độ ăn uống nghèo nàn.

Nhân viên ngành tài chính. Nhân viên của ngành nghề này có thói quen ăn uống thiếu khoa học. Hơn nữa, công việc này tạo nên áp lực và căng thẳng cao, tạo cảm giác bất an liên tục, rất dễ tạo nên những cơn đau tim, làm tăng huyết áp và stress kéo dài.

Nhân viên nhà hàng. Nhân viên nghề này thực sự phải đấu tranh với thực phẩm. Đến 79% có chế độ ăn uống không lành mạnh. Họ bị cám dỗ bởi thực thực phẩm chiên rán và nhiều chất béo.

Nhân viên làm theo ca. Như bác sỹ, y tá… có nguy cơ mắc bệnh tim mạch và tiểu đường tuyp 2. Do làm ca sẽ phá vỡ nhịp sinh học vốn là cái quan trọng để kiểm soát đường huyết, huyết áp và insulin. Thêm nữa là những người làm ca đêm thường hút thuốc nhiều, thời gian ngủ ngắn dẫn đến bệnh tim cao.

 Ngày đăng: 02/06/2021 Phạm Đức Thành

Hội chứng Mirizzi do sỏi túi mật

Hội chứng Mirizzi do sỏi túi mật biếu hiện như thế nào ?
 Ngày trả lời: 02/06/2021

Khái niệm hội chứng Mirizzi

Hội chứng Mirizzi là một biến chứng của sỏi túi mật, xảy ra khi có  hiện tượng tắt nghẽn của ống gan chung bởi sỏi kẹt ở ống túi mật hoặc ở túi Hartmann. Triệu chứng lâm sàng thường thấy nhất là triệu chứng sỏi túi mật điển hình đi kèm theo vàng da do tắc mật. Triệu chứng thông thường ít khi được chẩn đoán tiền phẫu, vì vậy làm tăng nguy cơ tổn thương đường mật và tử vong khi mổ, đặc biệt là với mổ nội soi.

Đây là hội chứng được đặt tên theo nhà phẫu thuật người Argentina Paoblo Mirizzi, người đã mô tả về sự tắc nghẽn của ống gan chung do sỏi túi mật và viêm túi mật vào năm 1948.

Vào năm 1905, Kehr là người đầu tiên báo cáo về tình trạng chèn ép đường mật do sỏi kẹt ở ống túi mật. Tuy nhiên, hội chứng này đã được đặt tên theo nhà phẫu thuật người Argentina Pablo Mirizzi, người đã mô tả về sự tắc nghẽn của ống gan chung do sỏi túi mật và viêm túi mật vào năm 1948.

Dịch tễ hội chứng Mirizzi

– Theo một thống kê từ 17.000 bệnh nhân được mổ mở do sỏi mật thì 219 bệnh nhân (1.3%) có hội chứng Mirizzi và/hoặc rò đường mật túi mật; Thực tế có thể tăng lên 2.7% đối với những cộng đồng có nguy cơ cao như thổ dân da đỏ.

– Theo những công bố gần đây, thống kê trên 13.023 ca mổ cắt túi mật nội soi thì 0.3% bệnh nhân có hội chứng Mirizzi và/hoặc rò đường mật túi mật.

– Khoảng 55 – 77% bệnh nhân được báo cáo là nữ giới, có thể phản ánh tỷ lệ mắc bệnh sỏi mật ở giới nữ, điều này có thể liên quan đến vấn đề hormon và việc sử dụng thuốc tránh thai.

Bệnh học hội chứng Mirizzi

Túi mật được chia làm 4 phần: đáy, thân, bóng và cổ. Về mặt giải phẫu một ống túi mật dài song song với đường mật đưa đến sự phát triển của hội chứng này .Thông thường sỏi túi mật lớn sẽ kẹt lại ở 2 vị trí là ống túi mật và túi Hartmann ( bóng ) theo 2 cơ chế :

– Vật lý: kích thước sỏi lớn kèm thêm sự gần gũi về mặt giải phẫu của ống gan chung và ống túi mật gây ra kẹt ống gan chung

– Tình trạng viêm gây phù nề và chèn ép vào ống gan chung

Sinh lý bệnh

Hội chứng Mirizzi có thể xảy ra do một viên sỏi lớn hoặc nhiều viên sỏi nhỏ kẹt ở túi Hartman (túi phồng lên nằm gần cổ của túi mật) hoặc kẹt ở ống túi mật. Sự tắc nghẽn ống túi mật mạn tính có thể gây viêm túi mật mạn tính và có thể gây giãn túi mật, dày thành túi mật và viêm.

Sự kẹt của một viên sỏi lớn (hoặc nhiều sỏi nhỏ) trong túi Hartman hoặc ống túi mật dẫn đến hội chứng Mirizzi qua 2 con đường:

(1) Viêm mạn tính và/ hoặc cấp tính dẫn đến sự co thắt của túi mật. Điều này dẫn đến hẹp ống gan chung thứ phát, và có thể gây viêm đường mật ở 1 đoạn và thúc đẩy quá trình viêm.

(2) Việc kẹt của một viên sỏi lớn dẫn đến rò túi mật đường mật và thứ phát gây hoại tử thành ống kế cận.

Hội chứng Mirizzi có các biểu hiện triệu chứng điển hình của các bệnh đường mật như:

– Vàng da tắc mật triệu chứng đặc trưng của hội chứng Mirizzi, thường kèm theo sốt và đau.

– Thường có viêm đường mật cấp tính.

– Bệnh nhân cũng có thể kèm theo viêm túi mật và viêm tụy với biểu hiện là những cơn đau quặn, cường độ mạnh.

Các xét nghiệm cận lâm sàng không có gì điển hình, thường thấy nhất là Bilirubin máu cao, tăng Phosphatase kiềm và men gan cũng hay gặp, tăng bạch cầu thường gặp khi có viêm túi mật cấp, viêm tụy, hoặc viêm đường mật.

 Ngày đăng: 02/06/2021 Lê Minh Phương

Bệnh sỏi ống mật chủ, chẩn đoán và điều trị ngoại khoa

Bệnh sỏi ống mật chủ, chẩn đoán và điều trị như thế nào ?
 Ngày trả lời: 02/06/2021

Sỏi ống mật chủ là bệnh hay gặp và có thể gây nhiều biến chứng; biến chứng tại chỗ  như gây thấm mật phúc mạc, viêm phúc mạc mật; chảy máu đường  mật…

Sỏi ống mật chủ là bệnh hay gặp và có thể gây nhiều biến chứng; biến chứng tại chỗ  như gây thấm mật phúc mạc, viêm phúc mạc mật; chảy máu đường  mật…  Hoặc biến chứng toàn thân như sốc nhiễm trùng, suy thận cấp, viêm tụy cấp và có thể dẫn đến tử vong.

Trong cấp cứu ngoại khoa hàng ngày số bệnh nhân cần được mổ cấp cứu ngày càng  giảm dần nhờ các phương tiện chẩn đoán, bên cạnh nền kinh tế ngày một nâng cao, bệnh nhân thường khám bác sĩ sớm hơn so với trước (mổ cấp cứu từ 95% những năm trước 1990 nay giảm xuống chỉ mổ cấp cứu khoảng 20% tại Bệnh viện Trung ương Huế và tỷ lệ tử vong cũng giảm rõ rệt từ 15% (năm 1986) xuống còn dưới 2% trong những năm gần đây.

Nguyên nhân và cơ chế

Ngày nay nguyên nhân tạo sỏi đường mật còn chưa được công bố trên các y văn thế giới cũng như ở Việt Nam. Các nước Âu Mỹ, Nhật Bản gặp sỏi lắng đọng cholesterol là chủ yếu, ở nước ta sỏi cholesterol là phối hợp với sắc tố mật, calci gặp ít. Theo các nghiên cứu trong nước thì sỏi lắng đọng sắc tố mật là chủ yếu trên cơ sở của nhân viên sỏi là trứng hoặc mảnh xác giun đũa. Theo Đỗ Kim Sơn tóm tắt các thuyết tạo sỏi như sau:

1.Thuyết nhiễm trùng

Do vi khuẩn tấn công gây tổn thương thành đường mật, làm đảo lộn cấu trúc mật và các tế bào viêm loét bong vào dịch mật, các muối calci cùng các tổ chức hoại tử và sắc tố mật kết tủa và hình thành sỏi.

2. Thuyết nhiễm ký sinh trùng

Ký sinh trùng đường ruột (chủ yếu là giun đũa). Khi giun chui lên ống mật (GCOM) mang theo cả trứng giun đũa, hoặc bản thân con giun mắc kẹt chết ngay trong đường  mật để lại các mảnh vỏ xác, tạo nòng cốt cho sắc tố mật lắng đọng bám vào ngày  càng nhiều dần dần thành viên sỏi, nghiên cứu khi cắt ngang viên sỏi đã tìm thấy  nòng cốt là trứng giun đũa hoặc mảnh xác giun đũa).

3. Thuyết chuyển hóa và tăng cholesterol máu

Gặp ở những bệnh nhân béo phì, đái tháo đường, thiểu năng giáp trạng, phụ nữ  mang thai… lượng cholesterol trong mật tăng cao, và hình thành sỏi mật (cắt ngang viên sỏi  thấy các tinh thể cholesterol xếp theo hình đồng tâm).

Như vậy ở Việt Nam nguyên nhân tạo sỏi phải kể đến nhiễm trùng đường mật và nhiễm ký sinh trùng (giun đũa) (liên quan đến vấn đề phòng bệnh).

Triệu chứng lâm sàng

Bệnh sỏi mật và đặc biệt là sỏi ống mật chủ, tam chứng Charcot là mô hình chẩn đoán  lâm sàng thường xuyên phải đề cập đến là: đau bụng vùng hạ sườn phải, sốt cao và vàng da. Ngoài ba triệu chứng trên nếu bị tái diễn từ 2 lần trở lên thì chẩn đoán sỏi  ống mật chủ thường chắc chắn.

1. Đau bụng

Vùng hạ sườn phải thường xuất hiện đột ngột và dữ dội sau bữa ăn 1-2 giờ; một số  người xuất hiện cơn đau bất kỳ thời điểm nào trong ngày. Đau lan lên ngực, lan ra sau lưng. Đau thường liên tục, đôi khi cũng thành cơn đau như cơn đau giun chui ống  mật.

2. Sốt

Sốt thường xảy ra sau cơn đau vài giờ, ít trường hợp xảy ra đồng thời với đau bụng; thường sốt cao 39 – 40oC.  Kèm theo run lạnh sau đó vã mồ  hôi.

3. Vàng da

Xuất hiện muộn hơn 2 triệu chứng đau và sốt, vàng da thường xuất hiện sau 24-48  giờ, vàng da chỉ thấy ở bệnh nhân sỏi ống mật chủ có tắc mật rõ.

Cơ chế triệu chứng:

− Đau bụng do 3 lý do:

+ Viên sỏi di chuyển.

+ Tăng nhu động túi mật và co bóp ống  mật.

+ Tăng áp lực đường mật (bình thường áp lực đường mật 10-15cm nước), khi tăng gấp 1,5 lần sẽ xuất hiện đau.

− Sốt: do ứ trệ dịch mật, vi khuẩn phát triển nhanh tiết ra nội độc tố, xâm nhập vào  máu, rét run trong khi sốt cao 39  – 40oC là do nội độc tố của vi khuẩn.

− Vàng da: khi tắc mật, dịch mật không xuống tá tràng mà ứ đọng trong gan. Sắc tố mật, muối mật vào máu, bilirubin máu tăng cao, do sắc tố mật có màu  vàng nên da,  giác mạc mắt có màu vàng.

Ngoài ra, triệu chứng nôn ít được quan tâm tới. Nước tiểu màu vàng do thải ra sắc tố mật. Phân bạc màu (ít quan tâm) do không có sắc tố mật. Ngứa do nhiễm độc muối mật.

Cường độ đau

Đau kéo dài trong nhiều giờ

Đau tăng lên nhanh

Thời gian (giờ)

4. Khám thực thể

Toàn trạng: vẻ mặt nhiễm trùng, hốc hác, lờ đờ, môi khô, lưỡi bẩn, vã mồ hôi, sốt  cao, mạch nhanh, vàng da vàng mắt.

Khám bụng:

− Nhìn: thấy gồ lên hình tròn, bầu dục vùng hạ sườn phải trong trường hợp có túi mật căng to.

− Sờ:

+ Sờ thấy túi mật căng to

+ Làm nghiệm pháp Murphy (+) nếu không sờ thấy túi mật.

+ Gan mấp mé hạ sườn phải (do ứ mật)

+ Phản ứng nhẹ hạ sườn phải.

5. Triệu chứng cận lâm sàng

5.1. Xét nghiệm máu

− Bilirubin tăng cao (bình thường 10mg/l).

− Men phosphatase kiềm tăng cao (bình thường 10 đơn vị King-Amstrong).

− Thời gian Quick tăng.

– Tỷ lệ prothrombin giảm do giảm hấp thu vitamin K.

5.2. Xét nghiệm nước tiểu

Sắc tố mật, muối mật dương  tính (bình thường không có trong nước tiểu)

5.3. Xét nghiệm hình ảnh

− Chụp đường mật cản quang ngày nay ít còn ứng dụng vì ít chính  xác, phiền  phức và nhiều tai biến. Ngày nay nhờ kỹ thuật nội soi bằng ống soi mềm, nên kỹ thụât chụp đường ngược dòng được áp dụng rộng rãi và cho kết quả khá chính xác. Chụp đường mật ngược dòng qua nội soi (ERCP) còn giúp điều trị trong một số trường hợp nhất định.

− Siêu âm bụng: là phương pháp phổ biến, dễ áp dụng, không gây đau cho bệnh nhân, có thể làm lại nhiều lần, tỷ lệ chẩn đoán đúng trên 95%.  Siêu âm xác định có sỏi hay không, kích thước và vị  trí của sỏi, tình  trạng đường mật và tình trạng ổ bụng.

− Siêu âm qua nội soi: cho phép xác định được những viên sỏi rất nhỏ, tuy nhiên cần trang thiết bị đắt tiền và người thực hiện có chuyên môn cao.

− Ngoài ra, một số xét nghiệm khác như CT scan, chụp cộng hưởng từ hạt nhân…, tuy nhiên ít có giá trị thực tiễn.

Chẩn đoán bệnh

1.Chẩn đoán xác định

− Dựa vào tam chứng Charcot: đau bụng + sốt + vàng da, xuất hiện theo một trình tự nhất định, kèm theo nếu tam chứng này bị tái diễn lại thì chẩn đoán càng rõ ràng hơn.

− Dựa vào siêu âm và các thăm dò khác kết luận có sỏi ống mật chủ.

− Dựa vào các xét nghiệm máu:

+ Tăng bilirubin

+ Tăng men phosphatase kiềm

− Dựa vào các xét nghiệm nước tiểu: có sắc tố mật, muối mật.

2. Chẩn đoán gián biệt

− Thể vàng da:

+ Cần phân biệt với khối u đầu tụy hoặc ung thư bóng Vater. Trong trường hợp này  không có tam chứng Charcot. Thường khi thấy vàng da rõ rồi mới có triệu chứng đau bụng, ít sốt, chỉ sốt nhẹ khi có bội nhiễm.

+ Viêm gan virus (lưu ý khi thấy bilirubin gián tiếp cao hơn là nghĩ đến viêm gan virus). Xét nghiệm thêm transaminase (SGPT cao).

− Thể không vàng da:

+ Loét hành tá tràng (cần chụp dạ dày cản quang hoặc nội soi dạ dày – tá tràng) để chẩn đoán.

+ Sỏi túi mật: thường không có vàng da, ngoại trừ sỏi túi mật phối hợp sỏi ống mật chủ.

Điều trị

1. Điều trị không phẫu thuật

− Điều trị nội khoa tạm thời trong tắc mật nhiễm trùng trong tắc mật cấp tính bao giờ  cũng kèm theo nhiễm trùng hoặc là tắc mật gây ứ đọng mật làm cho vi khuẩn hoạt động và phát triển; hoặc là có nhiễm trùng đường mật bị phù nề và ôm sát hòn sỏi cản  trở sự lưu thông dịch mật; điều trị chủ yếu là các loại kháng sinh chống vi khuẩn Gram (-), thuốc dãn cơ trơn. Phương pháp  này tạm thời điều trị triệu chứng để hạn  chế biến chứng do sỏi gây nên.

− Dùng các hoá chất làm tan sỏi mật như:

+ Sử dụng các hóa chất làm tan sỏi như cho uống chenodeoxycholic và ursodeoxycholic.

+ Hỗn hợp MTBE (Methyl – Tertiary – Butyl – Ether) bơm vào đường mật qua nội soi.

− Nội  soi qua tá tràng, cắt cơ vòng Oddi lấy sỏi.

− Tán sỏi qua da, tán sỏi qua nội soi đường mật.

− Tán sỏi ngoài cơ thể: hiện nay nhiều nước trên thế giới áp dụng tán sỏi OMC ngoài  cơ thể, kết quả thành công  khá cao.

2. Điều trị phẫu thuật

2.1. Phẫu thuật kinh điển (mổ hở)

Mở ống mật chủ lấy sỏi dẫn lưu Kehr: phương pháp này trước đây đang được sử dụng thường quy để điều trị ngoại khoa sỏi ống mật chủ.

Từ xa xưa cho đến nay vấn đề chủ yếu vẫn là phương pháp điều trị phẫu thuật, mổ bụng và tiến hành các thao tác trên đường mật tuỳ theo các tổn thương bệnh lý của nó.

•  Chỉ định

− Mổ cấp cứu: thường chỉ định trên bệnh nhân có biến chứng của sỏi đường mật: như thấm mật phúc mạc, viêm phúc mạc mật do hoại tử túi mật, hoại tử đường mật ngoài gan…

− Mổ cấp cứu trì hoãn: chỉ định trong các trường hợp sỏi đường mật kèm theo sốc  nhiễm trùng cần phải hồi sức nội một thời gian ngắn, khi tình trạng bệnh tạm ổn định, thực hiện phẫu thuật.

− Mổ theo kế hoạch: được chỉ định ở các bệnh nhân có sỏi mật chưa có biến chứng.

2.2. Các phương pháp phẫu thuật

Mục đích của phẫu thuật là lấy sỏi và dị vật đường mật, tạo sự lưu thông mật – ruột, dẫn lưu đường mật hoặc mổ nhẹ thì đầu cấp cứu để chuẩn bị cho lần mổ tiếp theo triệt để hơn.

Vấn đề sỏi ống mật chủ đơn thuần và sỏi túi mật đơn thuần cho đến nay ít có bất đồng về chỉ định và phương pháp phẫu thuật; việc lấy sỏi thường ít gặp khó khăn. Tuy  nhiên đối với những viên sỏi cắm chặt và phần thấp của ống mật chủ, việc lấy sỏi  cần được lưu ý hơn để  tránh tổn thương cơ Oddi và tuỵ tạng.

Đối với sỏi đường mật trong gan dễ bị bỏ sót trong khi mổ hoặc không phát hiện hết khi thăm dò hoặc không thể lấy hết sỏi ra được. Hiện nay ở Việt Nam lấy sỏi chủ yếu vẫn là nhờ dụng cụ Mérizzi hoặc Desjardin có các cỡ số độ cong thích hợp để xoay sở  trong việc lấy sỏi. Dùng ống sonde Nelaton cho sâu vào trong gan rồi dùng nước ấm bơm súc rửa để lấy sỏi nhỏ và dị vật nhỏ.

Đối với sỏi nằm sâu trên cao hoặc trong các ống gan hạ phân thuỳ, việc lấy sỏi cần có soi đường mật trong mổ hoặc dùng các sonde như Dormia hoặc Fogarty để lấy sỏi dễ dàng hơn các dụng cụ cứng.

Đối với sỏi gan trái: nhờ nhu mô gan mỏng sờ thấy sỏi mà không thể lấy qua đường  ống mật chủ, một số tác giả có khuynh ướng mở nhu mô gan lấy sỏi, nhưng thường bị rò mật, có khi gây viêm phúc mạc sau mổ cũng rất nguy hiểm, do vậy đối với trường hợp đường mật bị nhiễm trùng thì không có chỉ định này.

Sau khi giải quyết lấy sỏi và dị vật đường mật phải khâu ống mật chủ, để đảm bảo  an toàn cho đường khâu ống mật chủ ta thường dẫn lưu dịch mật bằng sonde Kehr. Mục  đích chính là làm giảm áp lực  đường mật, theo dõi diễn biến đường mật sau mổ và lợi  dụng sonde Kehr để chụp kiểm tra đường mật trong hoàn cảnh mổ sỏi mật ở Việt Nam.

Phương pháp dẫn lưu dịch mật trong cơ thể bằng cách nối mật ruộtvới nhiều kỹ thuật.  Phương pháp này được chỉ  định trong trường hợp có hẹp  cơ Oddi, chít hẹp đường mật, sỏi mật kèm theo nang ống mật chủ. Ngoài ra sỏi mật trong gan rải rác nhiều nơi,  nhiều sỏi hoặc sỏi mật đã phải mổ đi mổ lại nhiều  lần.

Có nhiều phương pháp nối mật-tiêu hoá khác nhau, việc lựa chọn phương pháp này tuỳ thuộc vào bệnh lý cũng như thói quen của phẫu thuật viên. Phương pháp đơn giản nhất là nối ống mật chủ-tá  tràng, tuy nhiên đã có nhiều nhược điểm: để lại túi bịt ống  mật chủ phía dưới là nguyên nhân của lắng đọng sỏi và ung thư hoá, nhiễm trùng  ngược dòng. Xu hướng hiện nay là nối ống mật chủ-hỗng tràng theo phương pháp Roux-en-Y với nhiều ưu điểm: tránh được nhiễm trùng ngược dòng, không có túi bịt ống mật chủ.

− Phương pháp mở rộng cơ Oddi qua đường tá tràng (còn được gọi là nối ống mật  chủ – tá tràng bên trong).

− Phương pháp nối ống mật chủ tá tràng kiểu miệng nối bên bên: dễ làm, ít biến  chứng nhưngcó nguy cơ nhiễm trùng ngược dòng do các vi  khuẩn đường  ruột, giun, thức ăn trào lên đường mật.

− Phương pháp nối ống mật chủ – hỗng tràng kiểu Ronal-Smith: được áp dụng trong trường hợp ống mật chủ bị chèn ép và u đầu tuỵ gây hẹp tá tràng.

− Phương pháp nối ống mật chủ – hỗng tràng kiểu Roux en Y: có ưu điểm hạn chế tỷ lệ nhiễm trùng đường mật ngược dòng do trào ngược.

− Phẫu thuật cắt phân thuỳ + hạ phân thùy gan trong điều trị sỏi  gan.

Cắt cơ vòng Oddi qua  nội soi

Ngày nay nhiều tác giả nước ngoài dùng phương pháp lấy sỏi qua đường nội soi tá tràng-cắt cơ vòng Oddi (ERCP). Hiện nay Việt Nam đã áp dụng phương pháp này,  tuy nhiên chỉ mới tiến hành ở một số bệnh viện thuộc tuyến Trung ương. Chỉ định tốt trong những trường hợp sỏi nhỏ thường là một viên và ở những bệnh nhân đã được mổ bụng trước đó. Tuy  nhiên chỉ định cần cân nhắc trong trường hợp bệnh nhân nhi.

Phẫu thuật bằng phương pháp nội soi ổ bụng

Để cắt bỏ túi mật hoặc mở ống mật chủ lấy sỏi ở Việt Nam bước đầu đã áp dụng nhưng chưa được phổ biến rộng rãi.

Với sự phát triển của phẫu thuật nội soi ổ bụng, ngày nay ngoài mở ống mật chủ lấy sỏi bằng đường mở bụng xu hướng mới là mở ống mật chủ lấy sỏi bằng nội soi ổ bụng. Tuy nhiên, mở ống mật chủ lấy sỏi bằng đường nội soi ổ bụng có những chỉ  định cụ  thể. Chỉ định chủ yếu trong trường hợp sỏi đơn giản và mổ lần đầu.

Phòng bệnh

Nhiễm trùng, nhiễm ký sinh trùng đường ruột gây viêm nhiễm lên đường mật là nguyên nhân gây sỏi mật khá phổ biến ở nước ta. Vậy phòng bệnh là phải áp dụng thực hiện chế độ ăn uống sạch. Tăng cường vận động thân thể; có chế độ tẩy giun định kỳ.

 Ngày đăng: 02/06/2021 Phạm Đức Thành

Những thực phẩm cần tránh cho người bị gan nhiễm mỡ

Những thực phẩm cần tránh cho người bị gan nhiễm mỡ là gì ?
 Ngày trả lời: 02/06/2021

Gan nhiễm mỡ là tình trạng phổ biến do lười vận động, thừa năng lượng, cần tăng cường uống trà, nước ép, ăn rau xanh, hoa quả tươi, cháo đậu để thanh lọc gan.

Đối với bệnh nhân gan nhiễm mỡ, để giảm lượng mỡ này, trước tiên cần hạn chế mỡ động vật trong thức ăn hàng ngày.

Điều này sẽ làm cho lượng mỡ trong máu giảm, lượng mỡ vận chuyển quan gan giảm, qua đó giảm gánh nặng cho gan.

Người bệnh gan nhiễm mỡ cũng nên kiêng ăn các loại phủ tạng động vật, da động vật, lòng đỏ trứng… vì có chứa nhiều cholesterol.

Hạn chế được các loại thức ăn này sẽ giúp người bệnh giảm được lượng mỡ thừa và phòng ngừa hoặc làm ổn định bệnh xơ vữa động mạch, cao huyết áp, tiểu đường, béo phì…

Bệnh gan nhiễm mỡ cũng không nên ăn thịt nhiều, đặc biệt là các loại thịt đỏ vì chất đạm (protein) cũng sẽ phải chuyển hóa ở gan, làm tăng gánh nặng cho gan.

Người bệnh nên hạn chế các loại gia vị có tính cay, nóng như tỏi, tiêu, ớt, gừng, riềng…

Những trường hợp gan nhiễm mỡ có kèm viêm gan vừa hoặc nặng, nên cẩn thận khi ăn những loại trái cây có chứa nhiều năng lượng và khó tiêu như sầu riêng, mít…

Đặc biệt là phải kiêng rượu bia. Khi bị bệnh gan nhiễm mỡ mà người bệnh vẫn tiếp tục uống rượu bia sẽ làm quá trình chuyển đến xơ gan và ung thư gan nhanh hơn rất nhiều.

Đặt câu hỏi

Quý khách vui lòng điền đầy đủ thông bên dưới

Gửi
Thiết kế & phát triển bởi SweetSoft JSC
Đặt lịch
Messenger